Nguyên phát là gì? Các công bố khoa học về Nguyên phát

Từ "nguyên phát" trong tiếng Việt có nghĩa là "nguyên tắc" hoặc "nguyên thủy". Nó thường được sử dụng để chỉ việc gì đó được thực hiện theo nguyên tắc hoặc tiêu...

Từ "nguyên phát" trong tiếng Việt có nghĩa là "nguyên tắc" hoặc "nguyên thủy". Nó thường được sử dụng để chỉ việc gì đó được thực hiện theo nguyên tắc hoặc tiêu chuẩn cơ bản, gốc rễ, nguyên khí.
"Nguyên phát" cũng có thể được sử dụng để chỉ việc gì đó tự nhiên, nguyên sơ, không qua sửa đổi hoặc can thiệp từ bên ngoài. Nó có thể ám chỉ sự thuần khiết và tự nhiên của một vật phẩm, ý tưởng hoặc quy trình. Ngoài ra, "nguyên phát" cũng có thể có nghĩa là "ban đầu", "nguyên bản" hoặc "mới mẻ" tùy theo ngữ cảnh sử dụng.
Từ "nguyên phát" cũng có thể được sử dụng trong ngữ cảnh của ngành y học, để chỉ bệnh tình không rõ nguyên nhân hoặc xuất phát từ nguyên nhân không xác định. Trong trường hợp này, "nguyên phát" ám chỉ vấn đề sức khỏe không rõ ràng về nguyên nhân hoặc bắt nguồn từ các yếu tố không biết rõ ràng.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nguyên phát":

Phương pháp quỹ đạo phân tử tự nhất quán. XII. Phát triển bổ sung bộ cơ sở dạng Gaussian cho nghiên cứu quỹ đạo phân tử của các hợp chất hữu cơ Dịch bởi AI
Journal of Chemical Physics - Tập 56 Số 5 - Trang 2257-2261 - 1972

Hai bộ cơ sở mở rộng (được gọi là 5–31G và 6–31G) bao gồm các hàm sóng nguyên tử được biểu diễn dưới dạng kết hợp tuyến tính cố định của các hàm Gaussian được trình bày cho các nguyên tố hàng đầu từ cacbon đến flo. Những hàm cơ sở này tương tự như bộ 4–31G [J. Chem. Phys. 54, 724 (1971)] ở chỗ mỗi lớp vỏ hóa trị được chia thành các phần bên trong và ngoài được mô tả tương ứng bằng ba và một hàm Gaussian. Các lớp vỏ bên trong được biểu diễn bởi một hàm cơ sở đơn lẻ, bao gồm tổng của năm (5–31G) hoặc sáu (6–31G) hàm Gaussian. Nghiên cứu với một số phân tử đa nguyên tử cho thấy giảm đáng kể năng lượng tổng tính toán so với bộ 4–31G. Tính toán năng lượng tương đối và hình học cân bằng dường như không thay đổi đáng kể.

#quỹ đạo phân tử #hàm cơ sở Gaussian #cacbon #flo #năng lượng tổng #cân bằng hình học #phân tử đa nguyên tử
Phát triển phương pháp kiểm tra đất bằng DTPA cho kẽm, sắt, mangan và đồng Dịch bởi AI
Soil Science Society of America Journal - Tập 42 Số 3 - Trang 421-428 - 1978
Tóm tắt

Một phương pháp kiểm tra đất DTPA đã được phát triển để nhận diện các loại đất gần trung tính và đất vôi có hàm lượng Zn, Fe, Mn, hoặc Cu không đủ cho năng suất cây trồng tối đa. Chất triết suất gồm 0.005M DTPA (axit diethylenetriaminepentaacetic), 0.1M triethanolamine, và 0.01M CaCl2, với pH là 7.3. Phương pháp kiểm tra đất bao gồm việc lắc 10 g đất khô không khí với 20 ml chất triết suất trong 2 giờ. Dung dịch được lọc, và hàm lượng Zn, Fe, Mn, và Cu được đo lường trong dung dịch lọc bằng phương pháp quang phổ hấp thu nguyên tử.

Phương pháp kiểm tra đất đã phân biệt thành công 77 loại đất ở Colorado dựa trên sự phản ứng của cây trồng với phân bón kẽm, sắt và mangan. Mức độ dinh dưỡng quan trọng phải được xác định riêng biệt cho từng loại cây trồng sử dụng quy trình tiêu chuẩn hóa cho việc chuẩn bị đất, nghiền và triết suất. Các mức độ quan trọng cho ngô sử dụng quy trình báo cáo trong nghiên cứu này là: 0.8 ppm cho Zn, 4.5 ppm cho Fe, tạm thời 1.0 ppm cho Mn, và 0.2 ppm cho Cu.

Việc phát triển phương pháp kiểm tra đất một phần dựa trên các cân nhắc lý thuyết. Chất triết suất được đệm tại pH 7.30 và chứa CaCl2 để cân bằng với CaCO3 tại mức CO2 cao hơn khoảng 10 lần so với mức trong không khí. Nhờ đó, chất triết suất tránh việc hòa tan CaCO3 và phát thải các dưỡng chất bị mắc kẹt thường không có sẵn cho cây trồng. DTPA được chọn làm chất tạo phức vì có khả năng hiệu quả chiết xuất cả bốn kim loại vi lượng. Các yếu tố như pH, nồng độ chất tạo phức, thời gian lắc, và nhiệt độ triết suất ảnh hưởng đến lượng vi lượng được chiết xuất và được điều chỉnh để đạt hiệu quả tối đa.

#DTPA; kiểm tra đất; Zn; Fe; Mn; Cu; triết suất đệm; quang phổ hấp thu nguyên tử; dinh dưỡng cây trồng; phương pháp chuẩn hóa; đất gần trung tính; đất vôi; diethylenetriaminepentaacetic
IQ-TREE 2: Những Mô Hình Mới Và Các Phương Pháp Hiệu Quả Cho Suy Luận Phát Sinh Chủng Loài Trong Kỷ Nguyên Genom Dịch bởi AI
Molecular Biology and Evolution - Tập 37 Số 5 - Trang 1530-1534 - 2020
Tóm tắt

IQ-TREE (http://www.iqtree.org, truy cập lần cuối vào ngày 6 tháng 2 năm 2020) là một gói phần mềm thân thiện với người dùng và được sử dụng rộng rãi cho suy luận phát sinh chủng loài dựa trên tiêu chí cực đại x-likelihood. Kể từ khi phát hành phiên bản 1 vào năm 2014, chúng tôi đã liên tục mở rộng IQ-TREE để tích hợp nhiều mô hình mới về sự tiến hóa của trình tự và các phương pháp tính toán hiệu quả cho suy luận phát sinh chủng loài nhằm xử lý dữ liệu hệ gen. Trong bài viết này, chúng tôi mô tả những tính năng nổi bật của phiên bản IQ-TREE 2 và nhấn mạnh những ưu điểm quan trọng so với các phần mềm khác.

#IQ-TREE #suy luận phát sinh chủng loài #tiêu chí cực đại x-likelihood #mô hình tiến hóa trình tự #kỷ nguyên genom
Cơ sở dữ liệu transcriptome cho tế bào thần kinh đệm, tế bào thần kinh và tế bào oligodendrocyte: Tài nguyên mới để hiểu biết về sự phát triển và chức năng của não Dịch bởi AI
Journal of Neuroscience - Tập 28 Số 1 - Trang 264-278 - 2008

Việc hiểu biết về các tương tác giữa tế bào điều khiển sự phát triển và chức năng của hệ thần kinh trung ương (CNS) từ lâu đã bị giới hạn bởi việc thiếu các phương pháp tách biệt sạch sẽ các loại tế bào thần kinh. Ở đây, chúng tôi mô tả các phương pháp để tách rời và tinh chế có triển vọng các tế bào thần kinh đệm, tế bào thần kinh và tế bào oligodendrocyte từ não trước phát triển và trưởng thành của chuột. Chúng tôi đã sử dụng FACS (phân loại tế bào hoạt động bằng huỳnh quang) để tách rời các tế bào thần kinh đệm từ chuột chuyển gen biểu hiện protein huỳnh quang xanh lá cây tăng cường (EGFP) dưới sự điều khiển của một trình điều khiển S100β. Bằng cách sử dụng Affymetrix GeneChip Arrays, chúng tôi đã tạo ra một cơ sở dữ liệu transcriptome về mức độ biểu hiện của hơn 20,000 gen bằng cách lập hồ sơ gen cho ba loại tế bào thần kinh chính của CNS ở các độ tuổi sau sinh khác nhau từ ngày sau sinh thứ nhất (P1) đến P30. Cơ sở dữ liệu này cung cấp một đặc điểm và so sánh toàn cầu chi tiết về các gen được biểu hiện bởi các tế bào thần kinh đệm, tế bào thần kinh và tế bào oligodendrocyte đã được tách rời một cách cấp tính. Chúng tôi phát hiện rằng Aldh1L1 là một dấu ấn kháng nguyên đặc hiệu cao cho các tế bào thần kinh đệm với kiểu hình biểu hiện tế bào thần kinh đệm rộng hơn đáng kể so với dấu ấn tế bào thần kinh đệm truyền thống GFAP. Các tế bào thần kinh đệm được làm giàu trong các con đường chuyển hóa và tổng hợp lipid cụ thể, cũng như các con đường phagocytic draper/Megf10 và Mertk/integrin αvβ5 cho thấy rằng các tế bào thần kinh đệm là những thực bào chuyên nghiệp. Những phát hiện của chúng tôi đặt ra câu hỏi về khái niệm về một lớp tế bào “tế bào đệm” khi mà hồ sơ gen của các tế bào thần kinh đệm và tế bào oligodendrocyte không tương đồng với nhau như chúng là với các tế bào thần kinh. Cơ sở dữ liệu transcriptome này của các tế bào thần kinh đệm, tế bào thần kinh và tế bào oligodendrocyte đã được tách rời và tinh chế cung cấp một tài nguyên cho cộng đồng thần kinh học bằng cách cung cấp các dấu ấn cụ thể cho loại tế bào tốt hơn và hiểu rõ hơn về sự phát triển, chức năng và bệnh lý thần kinh.

Tế bào T mang Thụ thể Kháng nguyên Nguyên phát Có tác dụng chống khối u mạnh mẽ và có thể thiết lập trí nhớ ở bệnh nhân mắc bạch cầu tiến triển Dịch bởi AI
American Association for the Advancement of Science (AAAS) - Tập 3 Số 95 - 2011

Các tế bào T được chuyển giao và sửa đổi gen mở rộng trong cơ thể, tiêu diệt các tế bào bạch cầu ung thư và hình thành các tế bào nhớ chức năng ở bệnh nhân.

Dịch tễ học, nguyên nhân, biểu hiện lâm sàng và chẩn đoán, phòng ngừa và kiểm soát bệnh do coronavirus (COVID-19) trong giai đoạn bùng phát sớm: một bài tổng quan Dịch bởi AI
Infectious Diseases of Poverty - - 2020
Tóm tắt Đặt vấn đề

Bệnh coronavirus (COVID-19) đã được xác định là nguyên nhân của một đợt bùng phát bệnh hô hấp tại Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc bắt đầu từ tháng 12 năm 2019. Tính đến ngày 31 tháng 1 năm 2020, dịch bệnh này đã lan rộng sang 19 quốc gia với 11.791 ca xác nhận, bao gồm 213 ca tử vong. Tổ chức Y tế Thế giới đã tuyên bố đây là tình trạng Khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng quốc tế.

Phương pháp

Một bài tổng quan quy mô đã được thực hiện theo khung phương pháp luận được đề xuất bởi Arksey và O’Malley. Trong bài tổng quan này, 65 bài nghiên cứu được công bố trước ngày 31 tháng 1 năm 2020 đã được phân tích và thảo luận để hiểu rõ hơn về dịch tễ học, nguyên nhân, chẩn đoán lâm sàng, phòng ngừa và kiểm soát virus này. Các lĩnh vực nghiên cứu, ngày công bố, ngôn ngữ tạp chí, sự liên kết của tác giả, và các đặc điểm phương pháp luận đã được đưa vào phân tích. Tất cả các phát hiện và tuyên bố trong bài tổng quan này liên quan đến đợt bùng phát đều dựa trên thông tin đã được công bố như được liệt kê trong phần tham khảo.

Kết quả

Phần lớn các công bố được viết bằng tiếng Anh (89,2%). Tỷ lệ bài viết được công bố liên quan đến nguyên nhân chiếm tỷ lệ lớn nhất (38,5%) và đa số (67,7%) được công bố bởi các học giả Trung Quốc. Các bài nghiên cứu ban đầu tập trung vào nguyên nhân, nhưng theo thời gian, đã có sự gia tăng của các bài viết liên quan đến phòng ngừa và kiểm soát. Các nghiên cứu cho đến nay cho thấy nguồn gốc của virus liên quan đến một chợ hải sản tại Vũ Hán, nhưng các liên kết động vật cụ thể vẫn chưa được xác nhận. Các triệu chứng được báo cáo bao gồm sốt, ho, mệt mỏi, viêm phổi, đau đầu, tiêu chảy, ho ra máu, và khó thở. Các biện pháp phòng ngừa như đeo khẩu trang, thực hành vệ sinh tay, tránh tiếp xúc công cộng, phát hiện ca bệnh, truy vết tiếp xúc, và cách ly đã được thảo luận như những cách giảm truyền nhiễm. Đến nay, chưa có phương pháp điều trị kháng virus cụ thể nào chứng minh hiệu quả; do đó, những người nhiễm bệnh chủ yếu dựa vào điều trị triệu chứng và chăm sóc hỗ trợ.

Kết luận

Đã có một sự bùng nổ nhanh chóng trong nghiên cứu để đáp ứng với đợt bùng phát COVID-19. Trong giai đoạn đầu này, các nghiên cứu được công bố chủ yếu khám phá dịch tễ học, nguyên nhân, biểu hiện lâm sàng và chẩn đoán, cũng như phòng ngừa và kiểm soát coronavirus mới. Mặc dù các nghiên cứu này có liên quan đến việc kiểm soát tình trạng khẩn cấp công cộng hiện tại, nhưng cần có nhiều nghiên cứu chất lượng cao hơn để cung cấp những cách thức hợp lệ và đáng tin cậy nhằm quản lý loại tình huống khẩn cấp sức khỏe cộng đồng này trong cả ngắn hạn và dài hạn.

Tế bào tổ chức nguyên phát trong máu cuống rốn người Dịch bởi AI
British Journal of Haematology - Tập 109 Số 1 - Trang 235-242 - 2000

Sự tạo máu được duy trì bởi hai thành phần tế bào chính, đó là tế bào gốc tạo huyết (HSCs) và tế bào nguyên phát trung mô (MPCs). MPCs có khả năng đa năng và là tiền thân của mô tủy xương, xương, sụn, cơ và các mô liên kết. Mặc dù sự hiện diện của HSCs trong máu cuống rốn (UCB) đã được biết đến rõ ràng, nhưng sự hiện diện của MPCs vẫn chưa được đánh giá đầy đủ. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã kiểm tra khả năng của các mẫu UCB trong việc tạo ra trong nuôi cấy các tế bào có đặc điểm của MPCs. Kết quả cho thấy rằng các tế bào đơn nhân từ UCB, khi được nuôi cấy, đã tạo ra các tế bào bám dính, mà xuất hiện với hình thái giống như tế bào tạo xương hoặc như trung mô. Các tế bào có hình thái giống tế bào tạo xương là đa nhân, biểu hiện hoạt tính TRAP và kháng nguyên CD45 và CD51/CD61. Ngược lại, các tế bào có hình thái trung mô thể hiện hình thái giống như nguyên bào sợi và biểu hiện một số kháng nguyên liên quan đến MPC (SH2, SH3, SH4, ASMA, MAB 1470, CD13, CD29 và CD49e). Kết quả của chúng tôi cho thấy rằng máu cuống rốn của các trẻ sinh non, so với khi đến kỳ hạn, phong phú hơn về các tế bào tiền thân trung mô, tương tự như các tế bào tiền thân tạo huyết.

Tế bào T mang thụ thể kháng nguyên chimeric tồn tại và gây ra sự thuyên giảm bền vững ở bệnh bạch cầu lympho mạn tính tái phát kháng trị Dịch bởi AI
American Association for the Advancement of Science (AAAS) - Tập 7 Số 303 - 2015

Các tế bào T CAR tồn tại và duy trì sự thuyên giảm trong bệnh bạch cầu lympho mạn tính tiên tiến.

Gen E6 và E7 của virus papillomavirus người loại 16 cùng nhau là cần thiết và đủ cho sự chuyển hóa tế bào keratinocyte người nguyên phát Dịch bởi AI
Journal of Virology - Tập 63 Số 10 - Trang 4417-4421 - 1989

Các gen của virus papillomavirus người loại 16 tham gia trực tiếp vào quá trình chuyển hóa in vitro của tế bào keratinocyte người nguyên phát đã được xác định. Trong ngữ cảnh của toàn bộ bộ gen virus, sự đột biến trong khung đọc mở E6 hoặc E7 đã hoàn toàn làm mất khả năng chuyển hóa của những tế bào này. Ngược lại, sự đột biến trong khung đọc mở E1, E2 và E2-E4 không có tác động. Do đó, cả hai gen E6 và E7 phải có đủ cho sự kích thích sự bất tử của tế bào keratinocyte và khả năng kháng lại sự biệt hóa tận cùng. Các gen E6 và E7 được biểu hiện cùng nhau từ promoter beta-actin của người là đủ cho quá trình chuyển hóa này; sự đột biến của bất kỳ gen nào trong ngữ cảnh của plasmid tái tổ hợp này đã loại bỏ khả năng kích thích sự hình thành các biến thế kháng biệt hóa ổn định.

Các tế bào tiền nguyên bào plasmacytoid khởi phát bệnh vẩy nến thông qua việc sản xuất interferon-α Dịch bởi AI
Journal of Experimental Medicine - Tập 202 Số 1 - Trang 135-143 - 2005

Bệnh vẩy nến là một trong những bệnh tự miễn do tế bào T gây ra phổ biến nhất ở người. Mặc dù có giả thuyết về vai trò của hệ miễn dịch bẩm sinh trong việc khởi động chuỗi phản ứng tự miễn dịch tế bào T, nhưng bản chất của nó vẫn chưa rõ ràng. Chúng tôi cho thấy rằng các tế bào tiền nguyên bào plasmacytoid (PDCs), là các tế bào sản xuất interferon (IFN)-α tự nhiên, xâm nhập vào da của bệnh nhân vẩy nến và trở nên hoạt hóa để sản xuất IFN-α ngay từ giai đoạn đầu của quá trình hình thành bệnh. Trong một mô hình cấy ghép vẩy nến ở người, chúng tôi cho thấy rằng việc ngăn chặn tín hiệu IFN-α hoặc ức chế khả năng sản xuất IFN-α của PDCs đã ngăn chặn sự phát triển của bệnh vẩy nến phụ thuộc vào tế bào T. Hơn nữa, các thí nghiệm phục hồi IFN-α đã chứng minh rằng IFN-α do PDCs tạo ra là cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của bệnh vẩy nến trong cơ thể. Những phát hiện này đã phát hiện ra một con đường miễn dịch bẩm sinh mới để kích hoạt một bệnh tự miễn phổ biến ở người và gợi ý rằng PDCs cùng với IFN-α do PDCs sản xuất có thể là những mục tiêu điều trị tiềm năng cho bệnh vẩy nến.

#Bệnh vẩy nến #tế bào miễn dịch bẩm sinh #interferon-α #tế bào tiền nguyên bào plasmacytoid #autoimmunity
Tổng số: 844   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10